Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) vừa cho biết, trong tháng 9/2019, trên thị trường thế giới, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ tăng nhờ đồng Rupee hồi phục, đồng Baht tăng trở lại giúp giá gạo Thái Lan ổn định ở mức cao trong gần 1 năm qua và đắt hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác ở châu Á, trong khi nhu cầu tiêu thụ ảm đạm giữ giá gạo Việt Nam ở mức thấp gần 12 năm.
Trong tháng 9/2019, giá lúa, gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long diễn biến chưa ổn định. Theo hệ thống cung cấp giá tại địa phương, tại An Giang, lúa IR50404 giảm 300 đồng/kg xuống còn 4.000 đồng/kg, lúa OM 5451 tăng 100 đồng/kg lên 5.100 đồng/kg; lúa OM4218 ổn định ở mức 4.800 đồng/kg; gạo IR50404 ở mức 10.000 – 11.000 đồng/kg; gạo chất lượng cao ở mức 13.000 đồng/kg; gạo thơm đặc sản jasmine ở mức 14.000 đồng/kg…
Cùng với đó, giá lúa trong nước diễn biến theo xu hướng giảm, với mức giảm 600 – 800 đồng/kg đối với lúa thường IR50404 và 100 – 200 đồng/kg đối với lúa chất lượng cao. Cụ thể, lúa IR50404 tại An Giang giảm từ 4.750 đồng/kg (mức cao nhất trong 9 tháng) xuống 4.000 đồng/kg (hiện nay); tại Vĩnh Long giảm từ 4.800 đồng/kg xuống còn 4.200 đồng/kg. Lúa chất lượng cao tại Bạc Liêu giảm từ 5.000 – 5.400 đồng/kg xuống còn 5.000 – 5.300 đồng/kg…
Dự báo giá lúa, gạo trong nước có thể tiếp tục giảm nhẹ do thiếu vắng nhu cầu mới, thị trường xuất khẩu gạo bế tắc trong thời gian tới.
Cũng theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, khối lượng gạo xuất khẩu tháng 9/2019 ước đạt 586 nghìn tấn với giá trị đạt 251 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 5,2 triệu tấn và 2,24 tỷ USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 9,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.
Giá gạo xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2019 đạt 435 USD/tấn, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2018.
Theo nhận định của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, trong tháng 9/2019, Chính phủ Phillipines cho biết sẽ cân nhắc sử dụng đa dạng các biện pháp phi thuế, như yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh và kiểm dịch thực vật, để điều chỉnh hoạt động nhập khẩu gạo. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp Phillipines cũng đang đề xuất áp thuế tự vệ đối với nhập khẩu gạo, dự kiến sẽ không thấp hơn 30%, do quy định trong Đạo luật Cộng hòa số 8800 của nước này có đề cập Philippines có thể áp thuế 30 – 80% đối với gạo nhập khẩu vượt quá 350 nghìn tấn.
Như vậy, gạo nhập khẩu vào Philippines ngoài việc phải chịu thuế quan 35%, trong trường hợp nước này đã nhập khẩu quá 350 nghìn tấn, mức thuế phải chịu thấp nhất sẽ là 65%. Điều này có thể trở thành một trong những nhân tố sẽ gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này trong thời gian tới.
Tuy nhiên, đứng trước tình hình hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng đến sản lượng gạo của Thái Lan, Singapore – quốc gia thường xuyên nhập khoảng 30 – 40% gạo từ Thái Lan, đang xem xét chiến lược đa dạng hóa nhập khẩu từ các nguồn khác. Do đó, trong thời gian tới, cơ hội tiếp cận thị trường gạo Singapore sẽ mở ra với các quốc gia trên, đặc biệt là Việt Nam và Campuchia, các quốc gia trong cùng khu vực Đông Nam Á, có lợi thế giao thương cùng với Singapore. Trong khi đó, Nhật Bản – quốc gia thường xuyên nhập khẩu 50% gạo từ Mỹ đang xem xét chuyển hướng sang nhập khẩu gạo từ các quốc gia ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Khánh Linh/ Thời báo tài chính Việt Nam